Lười từ nhỏ...
So với học sinh bây giờ, phải nói rằng, thế hệ trước, chỉ cần như 7x,
8x, những thế hệ cận kề nhất với giới trẻ bây giờ vất vả hơn nhiều, gian
khổ hơn nhiều. Có thể do bối cảnh của đất nước sau khi trải qua chiến
tranh với những kẻ thù đều là “đế quốc” như Pháp, Mỹ, do cơ chế bao cấp
của nền kinh tế thời bấy giờ buộc người dân sống trong thời đại đó phải
vật lộn như vậy, trong đó có thế hệ học sinh, sinh viên. Nhưng mặt khác,
chính hoàn cảnh ấy làm cho người ta phải chăm chỉ, phải cố gắng vươn
lên với chí tiến thủ gần như tuyệt đối để thoát khỏi cảnh đói nghèo,
thoát khỏi “áp bức” từ chính tâm lý của mình.
Hồi đó, trước khi đi học hoặc sau khi đi học về, dẫu cơ thể “cường
tráng” như cái kẹo mút dở, nhưng học sinh phải tự lo bữa ăn của mình -
có khi chỉ là cơm rang (may mà còn có để ăn như vậy), là mì sợi nấu với
nước lã đun sôi cho chút cà chua hoặc vội vội vàng vàng nấu bữa cơm trưa
hoặc chiều cho cả gia đình và bản thân mình ăn. Mà thời ấy, đâu phải
nấu cơm bằng bếp ga, bếp từ như bây giờ, mặc dù ở thủ đô nhưng nhà nào
có điều kiện mới nấu bằng bếp dầu nếu không, bằng bếp củi, lá khô nhặt ở
ngoài đường về.
Nói chung, hoàn cảnh buộc học sinh phải “tự thân vận động” đủ mọi mặt,
thậm chí cả kiếm tiền nuôi sống mình. Bởi không ít học sinh sau giờ tan
trường về phải chăn nuôi lợn, gà, phải bán hàng rong nhặt nhạnh từng
đồng bạc lẻ cùng với gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn phải bảo đảm
việc học tập. Nhưng cũng cần nói thêm, học tập thời đó, không như bây
giờ, học sinh được bố mẹ dạy dỗ, dìu dắt cùng với cô giáo từ bé mà chủ
yếu là tự học, tự mày mò, nghiên cứu... Vì phụ huynh sống trong thời kỳ
kinh tế bao cấp nói thật rằng chú tâm đến việc cơm ăn áo mặc nhiều hơn
là con cái học hành do điều kiện sinh hoạt quá eo hẹp nếu như không muốn
nói là không đủ.
Còn rất nhiều học sinh thành phố, đô thị hiện nay, sướng quá: chẳng
phải làm gì, cũng chẳng thiếu thứ gì từ ăn uống đến sách vở, học hành...
Lúc nào, cũng được bố mẹ chuẩn bị cho đến tận... “chân răng”, đương
nhiên, tùy theo điều kiện của từng gia đình để chăm sóc con cái - nhà
nào có điều kiện thì chăm theo kiểu có điều kiện, nhà nào điều kiện ít
hơn thì chăm theo kiểu ít điều kiện hơn. Song ai cũng cố gắng hết sức để
con cái được đầy đủ nhất, vẹn toàn nhất.
Có thể nào hình dung nổi, hiện nhiều học sinh THPT cao lớn hơn cái...
“sào” mỗi khi đến bữa ăn vẫn được bố mẹ “cơm bưng nước rót”, ăn sườn, cá
vẫn được bố mẹ gỡ sẵn xương bỏ đi như cho trẻ lên 3. Vào năm học, thay
vì phải tự chuẩn bị lấy sách vở thì đằng này, bố mẹ vẫn làm cho hết. Nhà
không phải quét, áo quần không phải giặt. Giờ nấu ăn, có khi mẹ cứ quần
quật trong bếp trong khi con tranh thủ ra quán... chơi game để chờ cơm
chín...
Giải thích cho hoàn cảnh sống sung sướng, nhàn hạ ấy của lớp trẻ không
gì dễ hơn là điều kiện kinh tế đã khác trước: sung túc hơn, đủ đầy hơn,
tâm lý của những bậc làm cha mẹ muốn: “con hơn cha”... Thế nhưng, đó chỉ
là biện minh cho việc chăm sóc thái quá, nuông chiều con cái của bố mẹ.
Trong khi hệ lụy của sự nuông chiều ấy ít nhất là sẽ làm mất đi tính tự
lập của trẻ, làm cho trẻ trở nên lười nhác, ỷ lại cho người khác những
việc có thể thực hiện trong tầm tay...
Tụ tập là sở thích của nhiều người Việt
Và không chỉ bố mẹ, ngay nhà trường cũng “tiếp tay” một cách gián tiếp
cho tính lười nhác này khi một lao động nhẹ nhàng nhất, đơn giản nhất là
quét lớp mà cũng không buộc học sinh phải làm. Mà tất cả đều một tay
bác lao công làm cả. Học sinh chỉ mỗi việc xin tiền bố mẹ để đóng tiền
vệ sinh.
Thực ra, việc trực nhật lớp không nặng nhọc, mất nhiều thời gian đến
nỗi để giải thích: sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian học tập của các
em. Nhưng phương thức chọn bác lao công trực nhật thay vì học sinh đã
làm cho ý thức lao động của trẻ bị triệt tiêu, ý thức gìn giữ vệ sinh
chung cũng không hình thành, tồn tại trong tư duy của trẻ và quan trọng
hơn: trẻ không biết trân trọng, quý sức lao động của người khác, coi
việc hưởng thụ trên sức lao động của người khác là nghiễm nhiên do không
biết giá trị của sức lao động phải bỏ ra...
Ông Nguyễn Hiệp Thống, Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã
từng phát biểu: “Lênin từng nói: Lao động cũng là hình thức giáo dục
nhân cách con người”, vậy mà việc không bắt học sinh lao động dưới hình
thức trực nhật lớp là việc làm lợi bất cập hại, “thương nhau kiểu ấy
bằng mười hại nhau”. Tới đây, quy định này sẽ phải xem xét lại và khôi
phục để bên cạnh giáo dục ý thức lao động cho học sinh còn thông qua đó,
giáo dục những kỹ năng sống khác cho các em”.
... Đến lớn
Không chỉ con trẻ mà người lớn cũng ngày một lười nhác hơn dưới mọi góc
độ. Giờ tan tầm chỉ cần ra các quán nhậu nhẹt là thấy ngay cảnh tượng
đã trở thành... chuyện “nhỏ như con thỏ”: người lớn, nhất là đám mày râu
ngồi la liệt, kín đặc tới tận đêm hôm khuya khoắt mới về, phó mặc mọi
việc ở nhà cho vợ con. Mà khi về đến nhà thì cũng chẳng khác gì những
người đã lựa chọn về nhà hơn là đi chè chén sau khi kết thúc ngày làm
việc: hoặc là nằm gác chân lên ghế chờ cơm bưng ra tận miệng hoặc là nằm
khểnh xem tivi để mặc vợ muốn làm gì thì làm.
Còn ở công sở dễ bắt gặp cảnh lười nhác nhất là khi sếp đi vắng hoặc
“ăn cắp” được chút thời gian của cơ quan. Những lúc đó, nếu trên màn
hình máy tính không là các trò game online từ êm ái đến bạo lực thì cũng
là những phim ướt át Hàn Quốc, là chít chát, lên facebook tán gẫu với
bạn bè. Công khai nữa thì “lượn”, “đánh võng” ngoài đường phố rồi cà phê
cà pháo... Ai hơi đâu “tự kỷ” ngồi một chỗ để làm việc, để nghiên cứu,
tìm hiểu cập nhật kiến thức. Có mà “hâm” mới như thế!
Lớp choai choai thì còn lười nữa, một tuần có bảy ngày thì gần như cả
bảy tối ra “chém gió” ngoài quán trà chanh, chẳng chịu mầy mò, đọc sách
“nạp” kiến thức như biết bao thế hệ thanh niên thuở trước, cũng chẳng
chịu lao động để rèn luyện ý thức, rèn luyện thể chất nhằm bảo vệ sức
khỏe...
Chỉ vì an phận
Có một lý giải cho sự lười nhác của người Việt hiện nay rằng: chẳng qua
kinh tế thị trường cùng với sự phát triển công nghệ, bên cạnh tạo điều
kiện cho con người có cuộc sống, việc làm tốt hơn thì lại dễ khiến người
ta trở nên nhác việc hơn do nhiều cám dỗ xung quanh dẫn dụ. Tuy nhiên,
cách giải thích này cũng chỉ là một căn nguyên mà căn nguyên sâu xa
nhất, chính xác nhất ấy là ý thức của con người. Bởi ý thức quyết định
hành động. Ví thử so sánh với thế hệ trước như cha ông chúng ta về
chuyện nhậu nhẹt chẳng hạn, thời trước hiếm hơn bây giờ không phải vì
tiền bạc, kinh tế mà ngay cả trong những dịp lễ, tết, giỗ chạp... dịp có
thể được coi là “nhậu”... một cách chính đáng, nhưng cũng không mấy ai
“chén chú chén anh” đến nỗi “rượu vào lời ra”, chỉ chừng mực là đứng
dậy.
Chuyện công sở cũng thế, cắm đầu cắm cổ làm đến lúc kẻng báo hiệu hết
giờ, cán bộ, viên chức mới ngẩng đầu đứng dậy kết thúc công việc, không
ai dám tự ý rời chỗ làm việc để trốn đi chỗ này chỗ khác “đánh bóng” mặt
đường. Sở dĩ, được như vậy là do ý thức lao động của con người thời đó
rất cao nhờ vào sự giáo dục cùng với hoàn cảnh khó khăn của đất nước
bắt buộc họ phải phấn đấu, nỗ lực. Không đươc an phận. Nhưng bây giờ thì
trớ trêu ở chỗ, đời sống kinh tế khá giả hơn, điều kiện phát triển tốt
hơn thì con người lại dễ dàng bằng lòng với cuộc sống, “an phận thủ
thường” với những gì đã có, không có trí tiến thủ! Từ “cơ sự” này mới
dẫn đến sự lười nhác, thiếu năng động... của con người hiện nay.
Lỗ Tấn có câu: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười
biếng”. Kinh thánh cũng có câu: “Không làm việc, không có niềm vui” hay
“Thiên đàng mới là chốn nghỉ ngơi”. Quả thật, sự lười nhác đã khiến cho
nhiều người Việt trở nên trì trệ, thiếu sáng tạo, hăng say trong làm
việc. Thế cho nên tỷ lệ người Việt mà có thể ghi dấu trên thế giới bằng
sự nỗ lực, chăm chỉ cá nhân như GS Ngô Bảo Châu là quá ít. Trong khi đó,
theo cơ quan công an, tội phạm đang trẻ hóa phần nhiều do “nhàn cư vi
bất thiện”.
Xuân Bách
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét